Đôi lời của quachhiennb: Hội thảo khoa học nhân 700 năm ngày Trần Nhân Tông nhập Niết Bàn đang diễn ra ở Yên Tử. Cho dù không đi dự hội thảo nhưng cả ngày hôm nay, từ sáng đến tối, từ cà phê vỉa hè cho tới sinh tố trong nhà, từ lúc còn ở cơ quan cho đến tận trước khi ru Gấu bi ngủ tôi đã được nghe rất nhiều ý kiến khác nhau về Trần Nhân Tông, những ý kiến trái nhau kịch liệt, đảm bảo hay hơn cãi nhau trong hội thảo nhiều.
Tôi đã xin phép PGS.TS Nguyễn Kim Sơn đưa nguyên văn tham luận trong hội thảo Trần Nhân Tông lần này của Thầy lên blog, đồng thời cũng xem như đây là một phần câu trả lời của tôi cho câu hỏi của một bạn về “thất tình lục dục” trong Tam giáo…Trong bài tham luận này Thầy Nguyễn Kim Sơn đã lí giải về chữ “lạc” trong Tam giáo…Xin lưu ý: Nếu ai trích dẫn, đăng lại hoặc sử dụng bất cứ một luận điểm nào trong bài viết này, cảm phiền trích dẫn nguồn đầy đủ.
CỘI NGUỒN TRIẾT HỌC CỦA TINH THẦN THIỀN NHẬP THẾ
TRẦN NHÂN TÔNG ( 陈 仁 宗)
Nguyễn Kim Sơn[1]
Từ then chốt: Phật tính; tam giáo; bất nhị; hòa quang đồng trần; lạc đạo, nhập thế. ( 佛性; 三 教; 不二; 和光 同 尘; 乐道; 入 世)
Tư tưởng Thiền của Trần Nhân Tông là tư tưởng Thiền nhập thế. Đây cũng là đặc điểm chung của tư tưởng các vị tiền bối của ông như Trần Thái Tông, Tuệ Trung Thượng Sĩ Trần Tung. Điều này đã được học giới cơ bản thống nhất công nhận. Tinh thần nhập thế đó thể hiện rõ ràng trong cả hành trạng, ứng xử, các lời thuyết giảng, thảo luận và trong thơ văn của Trần Nhân Tông. Điều này cũng từng được nhiều người nói tới và đề cập trong các công trình nghiên cứu. Người viết bài này tán thành với các nhận định về khuynh hướng nhập thế trong tư tưởng Thiền Trần Nhân Tông. Tuy nhiên, điều đáng quan tâm ở đây là, hầu như chưa có công trình nào tập trung lý giải một cách tường tận về nguồn gốc tư tưởng, những lý do thực tiễn, những căn nguyên hay nói theo cách của Phật học là những duyên khởi của tinh thần nhập thế trong tư tưởng Trần Nhân Tông. Cũng có một vài ý kiến động chạm tới vấn đề này, thì lại quá nhấn mạnh tới yếu tố tinh thần thời đại, khí thế dân tộc và cho đó là căn nguyên của tinh thần nhập thế. Vấn đề hầu còn bỏ ngỏ đó là đối tượng và hứng thú cho người viết thực hiện sự thảo luận nhỏ này.
Tính khuynh hướng của một trường phái triết học, một giáo phái hay cách ứng xử của một cá nhân, một nhóm xã hội bị quy định bởi rất nhiều nhân tố. Nó thường là một tổng thể phức tạp, đan xen hữu cơ. Tách bạch một vài nhân tố và coi đó là nguyên nhân của các khuynh hướng thực khó có thể lột tả được đầy đủ và chính xác. Tuy nhiên nó vẫn là việc không thể không làm. Theo quan điểm của người viết, tinh thần nhập thế, khuynh hướng nhập thế hay tư tưởng nhập thế của Thiền học Trần Nhân Tông cần được nhìn nhận từ hai phương diện, một là những căn cội triết học và hai là cơ sở thực tiễn, những lý do thực tiễn. Bài viết này tập trung thảo luận về những căn cội triết học, nền tảng triết học của tinh thần Thiền nhập thế Trần Nhân Tông.
Có thể nhìn một cách tổng quan về căn cội triết học của tinh thần nhập thế, mà nói theo cách của chính Trần Nhân Tông, là “cư trần lạc đạo”, đó là một hệ thống với Phật tính luận, phương pháp tu luyện, con đường giác ngộ của Thiền Tông, đặc biệt là Thiền Huệ Năng làm trục tâm. Trên cơ sở đó, nó kết hợp với tư tưởng Hòa quang đồng trần trong triết học Lão tử, tư tưởng Vô sở đãi và tùy tục trong tư tưởng Trang tử, và đương nhiên không thể thiếu tư tưởng lạc đạo của Nho gia. Xét về cơ cấu nó là sự hội nhập triết học và phương pháp tu dưỡ
ng, cảnh giới tinh thần của cả Tam giáo, lấy Thiền làm cơ sở để tiến hành hội nhập. Nhìn tư tưởng Thiền đời Trần trong thế hợp nhất của Tam giáo cũng không phải điều gì mới mẻ. Tuy nhiên, họ đã lấy những gì của Tam giáo, dung hợp là dung hợp cụ thể của những gì thì hầu như chưa được công trình nào đề cập cụ thể. Mặt khác, khi nói tới dung hợp Tam giáo, nhiền người nhìn thấy nó là một thực tế tư tưởng không thể nói khác, nhưng khi phân tích thì hoặc để cao Phật giáo, hoặc đề cao cực đoan tư tưởng dân tộc mà coi tư tưởng Nho, Đạo như những thứ làm giảm giá trị tư tưởng của Trần Nhân Tông. Họ đã bỏ qua một điêu, chính các tư tưởng gia đời Trần không hề coi nhẹ Nho gia và Đạo gia. Họ thực sự thung dung thoải mái trong sự dung hợp Tam giáo, đó mới chính là đặc sắc của họ.
Sự khái quát này không phải từ một đoán định mang tính tư biện mà xuất phát từ thao tác phân tích đối với chính những gì Trần Nhân Tông đã nói, đã thể hiện trong các tư liệu văn hiến có liên quan.
1. Bụt ở trong nhà -trục tâm của tư tưởng
Trước hết, ta đọc kỹ lại chính những gì Trần Nhân Tông đã viết, tự nói về con đường tu hành của mình. Mọi người đều biết ông là đệ tử của Tuệ Trung Thượng Sĩ. Khi nói về Tuệ Trung, Trần Nhân Tông hầu như không tiếc lời nào để ca ngợi. Ngoài sự quý mến theo tình sư đệ thông thường, ông ca ngợi Tuệ Trung về tư tưởng, về con đường tu hành, chứng ngộ. Tuệ Trung Thượng Sĩ có cái đặc sắc trong tư tưởng để truyền thừa và nó là bí truyền của Thiền phái. Trong sự ca ngợi ấy biểu lộ rất rõ ràng rằng, ông được nhận một thứ, có thể coi là Tâm ấn từ Tuệ Trung. Trong bài Thượng sĩ hành trạng, Trần Nhân Tông kể lại quá trình ông tiếp cận Tuệ Trung, sau nhiều lần thăm dò, đối thoại suy ngẫn, Trần Nhân Tông mới thực sự nhận thấy Tuệ Trung Thiền phong cao vọi. Ông kể: “ nhất nhật thỉnh vấn bản phận tông chỉ. Thượng sĩ ứng vân: Phản quan tự kỷ bản phận sự; bất tòng tha đắc(反观 自己 本分事, 不 从他得). Ngã khoát nhiên đắc cá nhập lộ. Nãi khu y sự sư yên.” [2]( Thượng sĩ hành trạng) ( Một hôm, ta xin hỏi ( Tuệ Trung ) về tông chỉ mà bản thân cần theo. Thượng sĩ đáp: Quay nhìn vào bản thân mình chính là việc cần làm, không nên tìm kiếm ở đâu khác. Ta bỗng nhiên ngộ được con đường cần đi, bèn bái làm sư phụ). Cái tâm ấn mà họ truyền cho nhau chính là phản quan tự kỷ bản phận sự, bất tòng tha đắc. Việc cần phải làm, tức con đường để đạt tới giác ngộ, chính là quay nhìn vào bản thân mình, tìm kiếm chính ở nơi mình mà không phải ở nơi nào khác. Cái đó là “ pháp hải độc nhãn” ( Biển pháp duy nhất cách nhìn) [3] của Tuệ Trung Thượng sĩ đem trao cho Trần Nhân Tông. Thiền gia thường nói “ Khổ hải vô nhai, hồi đầu thị ngạn”, ( Khổ hải không có bờ bến, quay nhìn vào tâm mình, đó chính là bến). Hai chữ Hồi đầu thực là đại tông chỉ của người tu Thiền. Đấy cũng chính là Gia trung hữu bảo hưu tầm mịch [4]( trong nhà có của quý cần gì phải tìm kiếm ở đâu khác) theo cách nói của Trần Nhân Tông.
Nhìn lại tư tưởng của Tuệ Trung Thượng sĩ và Trần Nhân Tông, ta thấy những biểu thị rất sinh động của tinh thần hướng nội vào bản tâm để truy cầu sự giải thoát. Đó là sự thể ngộ trong thực tế tu hành phương pháp chứng ngộ trực chỉ nhân tâm, kiến tính thành phật do Bồ Đề Lạt Ma, tổ sư của Thiền Tông đúc kết. Của quý trong nhà mà Trần Nhân Tông kiên trì tìm kiếm và đã thấy, đã an lạc trong đó không gì khác chính là Phật tính. Phật tính có trong tâm của tất cả mọi người. Phật tính là vấn đề hạt nhân của Phật giáo. Nó chỉ tính khả năng để thành Phật. Phật, trong Phật giáo đại thừa là một bản thể. Bản thể Phật tính trong Phật giáo Ấn Độ là một bản thể trừu tượng, bản thể siêu việt. Trong quá trình tiếp biến với văn hóa và mô thức tư duy của Trung Quốc, bản thể Phật tính dung hợp với nhân tính và tâm tính và định hướng tu dưỡng “ cầu chư kỷ vô cầu chư ngoại”[5] (truy cầu ở nơi bản thân mình, không truy cầu ở nơi ngoài mình) theo quan niệm của Nho gia. Nó vẫn là bản thể Phật tính, nhưng trong cách cảm nhận và tư duy c
a người Trung Quốc, Phật tính chuyển dần từ bản thể trừu tượng, siêu việt sang vừa là bản thể siêu việt lại vừa là thực thể tinh thần nội tại. Nó được diễn đạt và cảm nhận theo cách của Nho gia. Nó hình thành nên con đường hướng nội kiến tính, trực chỉ nhân tâm.
Trong Đàn kinh[6]Huệ Năng đưa ra mệnh đề rất quan trọng tức tâm tức Phật ( tạm dịch là Tâm đấy chính là Phật đấy). Ông chỉ rõ nhất thiết chúng sinh và chư Phật đều quy kết ở một điểm chung, đó là “ Tự tâm”:
“ Thính ngô thuyết pháp, nhữ đẳng chư nhân, Tự tâm thị Phật, cánh mạc hồ nghi, ngoại vô nhất vật nhi năng kiến lập, giai thị bản tâm sinh vạn chủng pháp. Cố kinh vân: tâm sinh chủng chủng pháp sinh, tâm diệt chủng chủng pháp diệt.
Ngô kim giáo nhữ, thức tự tâm chúng sinh, kiến tự tâm Phật tính.
Nhữ kim đương tín, Phật tri kiến giả, chỉ nhữ Tự tâm, tiện vô biệt Phật…ngô diệc khuyến nhất thiết nhân, vu tự tâm trung thường khai Phật chi tri kiến.
Cố tri vạn pháp, tận tại Tự tâm.”[7]
(Các ngươi nghe ta thuyết pháp, Tự tâm chính là Phật, sao lại còn hồ nghi, ngoài tâm ra thì không có vật nào kiến lập cả, bản tâm sinh vạn pháp. Cho nên mới nói: Tâm sinh vận pháp sinh, Tâm diệt vạn pháp diệt.
Nay ta dạy các ngươi, biết tự tâm chúng sinh, thấy tự tâm Phật tính.
Các ngươi nay nên tin rằng, thấy biết Phật, chỉ là tự tâm, ngoài ra không có Phật nào khác…Ta cũng khuyên tất thảy mọi người, tự trong tâm mình thường khai mở tri kiến Phật. Cho nên, biết về vạn pháp, tất thảy đều ở Tự tâm).
Tâm mà Huệ Năng nói tới là Tâm của con người sống động và cụ thể. Phật tính tồn tại tự trong Tâm, tức tâm tức Phật. Ngoài Tâm ra không có Phật nào hết [8]. Ông lại nói:
“Bồ đề chỉ hướng tâm giác, hà lao hướng ngoại cầu huyền? thính thuyết ỷ thử tu hành, Tây phương chỉ tại nhãn tiền. Cố tri, nhất thiết vạn pháp, tận tại tự thân chi trung, hà bất vu tự tâm đốn hiện chân như bản tính? Phật thị tự tính, mạc hướng thân ngoại cầu. Tự quy y Phật, bất ngôn quy ỷ tha Phật. Tự tính bất quy, vô sở ỷ xứ.”[9]( Bồ đề chính chỉ hướng giác ngộ ở nơi tâm, sao lại nhọc nhằn đi cầu điều huyền hư ở bên ngoài? Dựa theo điều này mà tu hành, Tây phương ở ngay trước mắt. Cho nên cần biết, vạn pháp tất thảy đều ở trong tự thân ta, sao chẳng quay về tự tâm đốn hiện chân như bản tính? Phật chính là Tự tính, chớ hướng ra ngoài thân mà truy cầu. Tự quay về quy y Phật nơi mình, không nói quy y Phật nào khác. Tự tính không quy, sẽ không có chỗ nào mà dựa hết).
Huệ Năng đã đem Phật tính hay Tâm thể trừu tượng trong Phật giáo Ấn Độ chuyển thành một loại tôn giáo nội tại, chuyển từ sùng bái Phật ngoại tại sang sùng bái chính bản tâm của mình. Phật tính cũng là Nhân tính, Nhân tính cũng là Phật tính, do đó kiến tính, tri tính, minh tâm kiến tính chính là con đường giải thoát, con đường giác ngộ thành Phật. Điều này có thể giải thích được nguồn cội sâu xa của tinh thần tự tín, tự lập, tự cường cực mạnh mẽ ở Tuệ Trung Thượng sĩ cũng như ở Trần Nhân Tông.
Từ quan niệm về Phật tính như trên, Thiền Huệ Năng đã mở ra một đường hướng tu hành, đường hướng giác ngộ cho số đông. Những người có thể biết chữ có thể không biết chữ, có thể xuất gia, có thể không xuất gia, ai có thể quay về với bản tâm tự tại thanh tĩnh của mình, có thể diệt vọng niệm, loại thi phi… là có thể kiến tính thành Phật. Mọi công việc đời thường và công việc tu hành không phân biệt. Bổ củi, gánh nước đều là diệu đạo. Và cũng do nhân tính và Phật tính hợp làm một, nên Phật tính cũng không tách rời nhận thức cảm tính bình thường. Quan niệm về Phật tính và phương pháp tu hành minh tâm kiến tính là hai vấn đề không thể tách rời. Phật tính luận là tiều đề triết học, cơ sở triết học, còn minh tâm kiến tính là phương pháp tu dưỡng. Chính đặc sắc này đã tạo ra cho Thiền Tông nói chung và Thiền Trần Nhân Tông tinh thần nhập thế, tinh thần “ cư trần lạc đạo”.
Tuệ Trung Thượng sĩ và Trần Nhân Tông đều là Thiền sư, điều này tự Trần Nhân Tông cũng đã nói rõ, chúng ta không cần phải bàn thêm về điều này. Gốc rễ xa xôi tư tưởng của Trần Nhân Tông là Thiền Huệ Năng cũng là điều nhiều người công nhận. Cái đặc sắc của Trần Nhân Tông chính là sự đúc rút và thể ngộ của một thực tiễn tu hành. Ông chứng ngộ trong thực tiễn con đường tu tâm một cách phù hợp với bản thân ông và người Việt đương thời. Điều mà Quốc sư Phù Vân nói với Trần Thái Tông : “ Trong núi vốn không có Phật, Phật ở ngay trong lòng, lòng lặng mà hiểu, đó chính là chân Phật”[10], hay như điều mà Trần Nhân Tông nói : “ gia trung hữu bảo hưu tầm mịch; Đối cảnh vô tâm mạc vấn Thiền”, thực chất là sự thể nghiệm và truyền thừa tư tưởng cốt lõi Thiền Tông. Cả chiều hướng nội về Tự tâm, kiến tính và đối cảnh vô tâm đều tạo cơ sở cho tinh thần nhập thế, có được lạc thú giữa đời thường. Nó là một loại lạc thú mang tính tôn giáo. Vấn đề mấu chốt là ở chỗ “ Đối cảnh vô tâm”. Khi tâm đạt tới thanh tĩnh, mà thanh tĩnh vốn là bản tính của tâm, thì vạn pháp không sinh, vạn pháp không diệt. Cảnh không làm động tâm, tâm không làm động cảnh. Ở trần mà không còn tâm danh lợi, ở trần mà thị phi sạch làu, ở trần mà động niệm không khởi…Đó là nhập thế mà không còn thế, trong nhập thế có xuất thế, xuất thế ngay trong cuộc đời.
Đọc lại bài Cư trần lạc đạo phú, đúng như đầu đề của nó, toàn bài phú diễn tả một cách sinh động rất nhiều phương diện của đời sống tu hành, với những lạc thú tinh thần trong cõi tục, trong đó tư tưởng Phật tính tự tâm và phương pháp tu tâm là trục xuyên suốt và kết nối. Ông nói:
Nếu mà cốc ( biết),
Tội ắt đã không.
Phép học lại thông,
Gìn tính sáng, mựa ( chớ) lạc tà đạo.
Thửa ( biết) mình học, cho phải chính tông,
Chỉn( chỉ) Bụt là lòng, xá ướm hỏi đòi cơ Mã Tổ.( Hội thứ Ba)
“ Gìn tính sáng”, “ Bụt là lòng”, thực chất là nói chuyện Minh tâm kiến tính, tức tâm tức Phật. Lại nói:
Vậy mới hay!
Bụt ở cong ( trong) nhà.
Chẳng phải tìm xa.
Nhân khuấy bổn( quên gốc) nên ta tìm Bụt;
Đến cốc ( biết)hay chỉ Bụt là ta. ( Hội thứ 5)
Đó vẫn là tư tưởng Phật tại tâm, tức tâm tức Phật. Hay chuyện tâm bản thanh tĩnh, minh tâm kiến tính được ông thông diễn Nôm rất thành công : “Dồi cho vằng vặc tính gương, Nào có nhuốm căn trần huyên náo” ( Hội thứ 6). Vẫn những tư tưởng quan trọng trên được diễn tả bằng nhiều những cách thức hình ảnh khác, nhưng tựu trung tâm là những vấn đề ấy:
“Săn hỷ xả, nhuyễn từ bi,
Nội tự tại kinhLòng hằng đọc.
Rèn lòng làm Bụt, chỉn xá tua một sức dồi mài,
Đãi cát kén vàng, còn lại phải nhiền phen lựa lọc. ( Hội thứ 8).
Cái Phật tâm thanh tĩnh sáng láng được người nghệ sĩ Trần Nhân Tông thể hiện một cách hình tượng hơn, tươi tắn hơn trong những bài thơ khác, chẳng hạn bài Sơn phòng mạn hứng(I):
Thị phi niệm trục triêu hoa lạc,
Danh lợi tâm tùy dạ vũ hàn.
Hoa tận, vũ tình sơn tịch tịch,
Nhất thanh đề điểu hựu xuân tàn.
( Niệm thị phi rụng theo hoa buổi sớm,
Tâm danh lợi lạnh đi cùng trận mưa đêm.
Hoa rụng hết, mưa tạnh núi tịch mịch,
Một tiếng chim kêu báo một mùa xuân nữa lại qua.)
Cái tâm đã không còn thị phi, danh lợi, cái tâm tịch mịch đó chính là cơ sở để an lạc giữa cõi trần. Rõ ràng chính Phật tính luận và phương pháp tu Thiền theo cách minh tâm kiến tính, đốn ngộ thành Phật là cơ sở triết học quan trọng nhất của tinh thần cư trần lạc đạo, tinh thần nhập thế của Thiền học Trần Nhân Tông.
2. Vô sở đãi và tùy duyên tùy tục- người dật sĩ tiêu dao giữa cõi trần
Như trên đã trình bày, thái độ nhập thế, cư trần lạc đạo của Trần Nhân Tông cần được nhìn nhận là một thể phức hợp tư tưởng, nó có yếu tố trục tâm và các phương quy chiếu, hội tụ khác. Triết học nhân sinh của Đạo gia có mặt một cách khá đậm nét và là một cách “ nói hộ” cho nhiều tư tưởng Thiền.
Cũng trong bài Thượng sĩ hành trạng, Trần Nhân Tông viết về người thầy của mình: “ Hỗn tục hòa quang, dữ vật vị thường xúc ngỗ, cố năng thiệu long pháp chủng…”( Thượng sĩ hòa ánh sáng cùng đời, chưa từng trái vật, cho nên đã hoằng dương Phật pháp). Tuệ Trung Thượng sĩ từng đắc pháp với Thiền sư Tiêu Dao ( một pháp danh khiến người ta nghĩ tới Trang tử hơn là mạch truyền thừa của Thiền Tông), lại “ nhật dĩ Thiền duyệt vi lạc”[11]( ngày ngày lấy lạc đạo Thiền làm vui). Có thể diễn đạt lại những thông tin mà Trần Nhân Tông nói ở trên về sự nghiệp tu hành của Thượng sĩ là: hòa quang đồng trần, tiêu dao tề vật, không phân biệt ta và vật, ngày ngày tràn ngập lạc thú trong việc tu Thiền, và cũng chính bằng cách đó ông phù trì mở mang được Phật pháp. Nhận xét đó là Trần Nhân Tông nói về sư phụ, nhưng nó cũng là đắc pháp của chính ông. Một vài tinh thần quan trọng của Đạo gia được vận dụng, vừa là sự bổ sung tư tưởng, vừa là một cách nói cho Thiền.
“Hòa kỳ quang, đồng kỳ trần – 和 其光 同 其尘”[12] là một đặc sắc tư tưởng của Lão tử. Lão tử nêu quan điểm hòa quang đồng trần để giải thích về lẽ Huyền đồng(玄同). Vương Bật chú là: “ Không có chỗ nào đặc biệt vinh hiển, thì vật không có chỗ nào tranh nhau; Không có chỗ nào đặc biệt ty tiện, thì vật không có chỗ nào thẹn–无所特显,则物无所偏争也;无所特贱,则物无所偏耻也”). Ngô Trừng chú là: “Hòa, cũng là Bình vậy, biểu thị ý nén mà giấu đi; Đồng, là để nói bình đẳng mà không có chỗ nào khác. Gương vì bụi mà không sáng, phàm đã sáng thì tất có mờ tối, cho nên trước hãy tự giấu ánh sáng đi để hoà cùng với bụi kia, không muốn thể hiện cái sáng của mình, như vậy thì trước sau không bao giờ bị mờ tối和,犹平也,掩抑之意;同,谓齐等而与之不异也。镜受尘者不光,凡光者终必暗,故先自掩其光以同乎彼之尘,不欲其光也,则亦终无暗之时矣”). Người đời sau dùng “ Hòa quang đồng trần” để chỉ triết lý sống nổi chìm cùng thế tục, tùy tục tùy thời hành xử, không để lộ ra một sự khác biệt hay đặc biệt nào. Trong cách nói của Trần Nhân Tông- Hỗn tục hòa quang, dữ vật vị thường xúc ngỗ, cố năng thiệu long pháp chủng, ta có thể nhận thấy nó vừa mang nghĩa tùy tục tùy thời hành xử, đồng thời ở tầng thừ triết học, nó cũng để chỉ cả tinh thần bình đẳng, bất nhị, tề vật, một tư tưởng quan trọng ở Thượng sĩ. Những tư tưởng ấy của Thượng sĩ cũng ảnh hưởng và thể hiện sinh động trong tư tưởng của Trần Nhân Tông.
Như trên đã trình bày, trong sự tu tâm để giác ngộ kiến tính, “Dồi cho vặc vặc tính gương; Nào có nhuốm căn trần huyên náo”, đương nhiên là chính đạo để hành. Tâm đã sáng như gương, căn trần huyên náo không thể vướng bận. Giữ Tâm sáng, mà là thực sáng thì không gì làm mờ được, có cái đó có thể giữa cõi trần mà lạc đạo được. Nhưng giữ cho gương luôn sáng thì giấu cái sáng đi để hòa cùng bụi kia cũng là thêm một cách. Nó là “ Phật- Đạo hỗ bổ”( Phật Đạo bổ sung cho nhau). Tinh thần Hòa quang đồng trần vừa giải thích rõ thêm phương pháp minh tâm, nhưng cũng là gợi ý về con đường nhập thế, cách sống nổi chìm cùng thế gian. Cư trần lạc đạo phú có nhưng đoạn đầy ắp tinh thần Đạo gia:
Say đạo đức, dời thân tâm,
Định nên thánh trí
Mày ngang mũi dọc,
Tướng tuy lạ xem ắt bằng nhau(Hội thứ Mười).
Đây chính là nhắc tới tinh thần tọa vong và tâm trai để đạt tới tề vật, vô sở đãi của Trang tử. Các thiên Tiêu dao du và Tề vật luận trong sách Trang tử tập trung thảo luận về vấn đề căn cội khiến con người không mất tự do. Con người sở dĩ bị trói buộc tinh thần chính do thái độ phân biệt tốt xấu, thiện ác, bỉ thử, nhân ngã, giàu nghèo, tâm vật…tức là : Đãi. Muốn đạt tới tự do tiêu dao tuyệt đối, người ta cần loại bỏ chấp đãi, đạt tới Vô sở đãi . Vô sở đãi là dạng chân thể Một duy nhất của đạo, đó là dạng độc nhất mà vô nhị của vận vật. Nhân cách lý tưởng của Trang tử là : “Chí nhân vô kỷ, thần nhân vô công, thánh nhân vô danh至人无己,神人无功,圣人无名”, cả ba cái vô đó thực chất là vô sở đãi, là bất nhị, không phân biệt. Trang tử hướng tới cái tự do tiêu dao tuyệt đối, sống hòa làm một với đạo, tức sống theo chân thể, sống theo bản tính. Đó là xét về mặt triết lý, còn phương châm sống thực tế, Trang tử chủ trương sống thuận tự nhiên, sống theo bản tính tự nhiên, sống tùy tục, không cố gắng làm trái, làm khác, đáng làm gì thì làm cái đó theo lẽ tự nhiên, an theo thời xử theo thuận.
Trần Nhân Tông nói Cư trần lạc đạo thả tùy duyên; Cơ tắc xan hề khốn tắc miên. Về chữ nghĩa, tùy duyên là chữ nhà Phật, nhưng sống tùy duyên, đói ăn, mệt ngủ mà tìm lạc thú trong chính cái tùy duyên đó thì nó cũng lại là Trang, mà chất Trang là nhiều. Đó chính là đem tư tưởng tùy tục an thời xử thuận của Trang tử để diễn tả triết lý nhậm vận tùy duyên. Trần Nhân Tông cũng nói rõ ông chẳng khác nào dật sĩ tiêu dao:
Ai ghẻ ( chia rẽ, phân biệt) có sơn lâm thành thị,
Núi hoang rừng quạnh, ấy là nơi dật sĩ tiêu dao.
Chiền vắng am thanh,
Chỉn thực cảnh đạo nhân du hý. ( Cư trần lạc đạo phú- Hội thứ Mười)
Không có sự phân biệt nào giữa sơn lâm hay thành thị, rừng hoang hay chùa vắng, đạo nhân, dật sĩ hay Thiền sư. Tất cả đều tùy duyên mà lạc đạo giữa cõi trần.
Có rất nhiều cách nói, điển cố trong sách Trang tử được Trần Nhân Tông dùng, hoặc tái tạo để diễn tả những trạng thái tinh thần và hành động của đời sống tu Thiền, chẳng hạn:
Thiền ngỏ năm câu, nằm nhãng cong quê Hà Hữu[13];
Kinh xem ba biến, ngồi ngơi mái quốc Tân la. ( Cư trần lạc đạo phú- Hội thứ 5)
Hay:
Địch chăng có lỗ[14],
Cũng bấm chơi xướng thái bình ca. .( Cư trần lạc đạo phú- Hội thứ 5)
Còn trong Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca, Trần Nhân Tông thể hiện tinh thần phóng khoáng, tự do tiêu dao không khác gì dật sĩ tu đạo, dưỡng chân.
Công danh chẳng trọng,
Phú quý chẳng màng.
Tần Hán xưa kia,
Xem đà hèn hạ.
Yên bề phận khó,
Kiếm chốn dưỡng thân.
Khuất tịch non cao,
Náu mình sơn dã.
Vượn mừng hủ hỉ,
Làm bạn cùng ta.
Vắng vẻ ngàn kia,
Thân lòng hỷ xả.
Thanh nhàn vô sự,
Quét tước đài hoa…
Đọc những bài phú Nôm của các nhà Nho ẩn dật chốn lâm tuyền hay nơi thôn dã ta cũng đều thấy hình ảnh con người nhiệm tự nhiên, thiên tính bất biến, an nhiên tự lạc như vậy.
Chính tư tưởng hòa quang đồng trần, vô đãi, bất nhị vật, tiêu dao tùy tục an nhiên tự đắc của tư tưởng Lão Trang đã góp phần tạo nên căn cơ triết học cho tư tưởng phàm thánh bất nhị, nhậm vận tùy duyên, cư trần lạc đạo của cả dòng Thiền đời Trần nói chung và Thiền học của Trần Nhân Tông nói riêng. Một chữ Lạc của Trần Nhân Tông có sự góp mặt của cả Tam gia- Nho, Phật, Đạo.
[1] PGS. TS Nguyễn Kim Sơn, công tác tại Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội
[3] Thượng sĩ hành trạng- Kệ tán Tuệ Trung Thượng Sĩ
[4] Cư trần lạc đạo phú– Kệ yết hậu
[8] Chúng ta thấy trong tư tưởng của Tuệ Trung Thượng sĩ và Trần Nhân Tông đều nhấn mạnh, tư tưởng: T
âm sinh vạn pháp sinh; Tâm diệt vạn pháp diệt.
[10] Trần Thái Tông-Khóa hư lục
[11] Thượng sĩ hành trạng
[12] Câu này xuất xứ ở chương thứ 56 sách Lão tử. , “挫其锐解其忿,和其光,同其尘,是谓玄同”Tỏa kỳ nhụệ, giải kỳ phân, hòa kỳ quang, đồng kỳ trần, thị vị huyền đồng.
[13] Quê Hà Hữu, trong thiên Tiêu Dao du, Trang tử nói tới địa danh Vô hà hữu chi hương, làng không nơi nào, để chỉ nơi trồng cây Vu, cây Lịch cao mấy vạn dặm và hưởng hết tuổi trời.
[14] Cũng thiên Tiêu Dao du, Trang tử nói tới cây sáo không lỗ, coi đó là Thiên lại( sáo trời). Sáo trời không lỗ, nhưng phát ra thế giới âm thanh tuyệt mỹ, phong phú, và chí lạc mà sáo của người hay sáo của đât không thể sánh được.